Trên báo Nhân Dân, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đã có bài viết sâu sắc "Tìm lối ra cho giáo dục đại học". BBT đăng tải lại bài viết này.
Ðại hội Ðảng lần thứ XI đã nêu ba đột phá cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay, mà đột phá quan trọng nhất là "Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ".
Giáo dục đại học (GDÐH) là công cụ quan trọng để phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, do đó những vấn đề nổi cộm của GDÐH hiện nay làm cho những người có tâm huyết với giáo dục (GD) và cả xã hội lo lắng.
Trước hết hãy xem xét về tính ổn định của hệ thống và mạng lưới các trường đại học (ÐH) và cao đẳng. Việc nâng cấp ồ ạt các trường công lập trong mấy năm qua tạo nên quá nhiều trường không tương xứng với danh hiệu của chúng. Nhiều trường ngoài công lập (NCL) cảm thấy Nhà nước một mặt đưa ra đường lối xã hội hóa, khuyến khích họ thành lập và đóng góp phát triển GD, nhưng mặt khác lại áp dụng một số chính sách cụ thể gây khó khăn cho sự phát triển của họ. Ðối với cả hệ thống thì GDÐH phát triển nhanh về số lượng nhưng giảm sút về chất lượng. Tất cả tình hình nói trên cho thấy GDÐH chưa đi vào thế phát triển ổn định, bền vững, đó là điều đáng lo ngại.
|
Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình |
Về số lượng và chất lượng đào tạo đại học
Chủ trương đại chúng hóa GDÐH đã được khẳng định từ Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP (Nghị quyết 14) của Chính phủ về "Ðổi mới cơ bản và toàn diện GDÐH". Ðó là một chủ trương đúng đắn, vì kinh nghiệm quốc tế đã khẳng định: một nước muốn xây dựng một nền kinh tế công nghiệp phải có một nền GDÐH đại chúng, cụ thể là tỷ số sinh viên (SV) so với thanh niên ở độ tuổi đại học phải đạt trong khoảng từ 15% đến 50%. Còn về chất lượng đội ngũ được đào tạo phải đáp ứng nhu cầu đa dạng nhân lực trình độ cao của thị trường lao động. Trong thời đại hiện nay cả thế giới đều nhìn nhận rằng nhân lực chất lượng cao là nhân tố quyết định nhất để phát triển kinh tế - xã hội, do đó hầu hết mọi quốc gia đều ưu tiên phát triển GD, đặc biệt là GDÐH.
Vậy số lượng và chất lượng đào tạo ÐH của nước ta hiện nay như thế nào? Ðể nhận định về số lượng, có thể dẫn vài số liệu thống kê của UNESCO vào năm 2010 về tỷ số SV nói trên của một số nước: Mỹ 95%, Nga 76%, Mông Cổ 53%, Thái-lan 46%, Ma-lai-xi-a 42%, Trung Quốc 26%, Việt Nam 22%. Riêng Hàn Quốc đạt một tỷ số đặc biệt là 103% vì trong đội ngũ SV có nhiều người trên độ tuổi đại học. Như vậy tỷ số mà nước ta đạt được chưa phải là cao so với các nước đang phát triển trong khu vực, do đó chúng ta không nên sợ quá thừa SV đại học.
Ðiều đáng lo ngại chính là chất lượng. Có lẽ không cần nói nhiều về chủ đề này vì lẽ thông tin từ truyền thông và từ nhiều nghiên cứu đã phản ánh chất lượng GDÐH có phần giảm sút so với trước đây và không đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp của thị trường lao động. Tuy rất thiếu nhân lực nhưng nhiều tập đoàn, công ty không tuyển được người.
Nguyên nhân chất lượng giáo dục đại học thấp
Vì sao chất lượng đào tạo ÐH không đáp ứng yêu cầu và giảm sút? Chỉ xin nêu ba nguyên nhân quan trọng sau đây.
- Một là, do sự phát triển quá nhanh trong mấy năm qua: nhiều trường được mở hoặc nâng cấp khi chưa đủ điều kiện để bảo đảm chất lượng đào tạo.
- Hai là, chi phí đơn vị để đào tạo SV ở nước ta hiện nay quá thấp.
- Ba là, trong quản lý GDÐH chưa chú ý việc phân tầng về chức năng của hệ thống để đáp ứng nhu cầu đa dạng của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nguyên nhân thứ nhất liên quan yếu kém về quản lý, ngành GD cần nghiêm khắc rút kinh nghiệm việc cho phép mở trường, nâng cấp trường.
Nguyên nhân thứ hai là do phương châm GD là quốc sách hàng đầu của Ðảng và Nhà nước chưa được quán triệt đầy đủ. Cuộc khảo sát GDÐH của Quốc hội năm 2010 đã cho thấy chi phí đơn vị trung bình (cho mỗi đầu SV một năm) của GDÐH nước ta chỉ khoảng 500 USD, mà đối với nhiều trường, kể cả một số trường trọng điểm, chi phí đó giảm xuống chỉ còn khoảng 300 USD vì tuyển quá đông SV. Theo thông lệ quốc tế, đối với các nước kém phát triển như nước ta muốn đào tạo bảo đảm chất lượng tối thiểu thì chi phí đơn vị cho GDÐH phải trên mức GDP đầu người, tức khoảng 1.200 USD vào năm 2010 (và khoảng 1.600 USD hiện nay).
Làm sao tăng chi phí đơn vị trung bình lên cỡ hơn gấp hai lần? Khác với GD phổ cập, GDÐH không thể chỉ trông cậy vào ngân sách nhà nước, tuy ngân sách nhà nước phải là nguồn chủ đạo. Cần huy động thêm đóng góp của người học và của các thành phần ngoài công lập (NCL). Kinh nghiệm thế giới cho biết có thể huy động sự đóng góp thích đáng của người học nếu sử dụng chính sách học phí cao cộng hỗ trợ cao. Huy động học phí cao của tất cả những SV đủ khả năng đóng học phí, đồng thời có hỗ trợ cao cho những SV không đủ khả năng đó để họ có đủ tiền đóng học phí và học ÐH.
Từ tháng 9-2007, một điểm sáng trong chính sách GDÐH của Chính phủ là đã thành lập một quỹ tín dụng cho học sinh, sinh viên vay (khoảng 45 nghìn tỷ đồng). Ðể phát huy tác dụng của quỹ một mặt cần quản lý sao cho nó được sử dụng đúng mục tiêu, mặt khác Chính phủ nên cố gắng tìm cách tăng quỹ này. Nếu quỹ tín dụng học sinh, sinh viên được tăng cỡ gấp đôi, mức học phí sẽ có thể tăng lên thích đáng, lúc đó có thể đủ chi phí đơn vị tối thiểu cho GDÐH, bảo đảm chất lượng GDÐH mà vẫn giữ được công bằng xã hội. Nếu thật sự xem GD là quốc sách hàng đầu thì tin rằng Chính phủ có thể tìm được nguồn để mở rộng quỹ, kể cả nguồn vay quốc tế.
Việc khắc phục nguyên nhân thứ ba liên quan khái niệm về phân tầng GDÐH. Luật GDÐH đã nêu rõ chủ trương phân tầng GDÐH. Hiện nay nhu cầu nhân lực khá đa dạng, hệ thống GDÐH nước ta cũng khá rộng lớn, do đó việc phân tầng là hết sức quan trọng.
Phân tầng là có sự phân công về chức năng các nhóm trường để đáp ứng các nhu cầu khác nhau về nhân lực. Chẳng hạn, các trường ÐH trọng điểm cần chú trọng chất lượng hơn là số lượng để tập trung đào tạo nhân lực ÐH và sau ÐH có trình độ lý luận cao đối với các ngành khoa học và công nghệ nền tảng quan trọng. Các trường ÐH tầng thấp hơn, trong đó có các ÐH địa phương và ÐH NCL, cần đáp ứng những ngành nghề nặng về thực hành, thỏa mãn nhu cầu đa dạng của thị trường lao động. Các trường ÐH và cao đẳng cộng đồng cần gắn với mục tiêu tạo cơ hội ÐH cho số đông và đào tạo nghề phục vụ kinh tế - xã hội địa phương. Các ÐH mở là công cụ để đào tạo mở và từ xa, đào tạo một số lượng đông SV bằng các biện pháp công nghệ thích ứng bảo đảm chất lượng.
Cần lưu ý là hệ thống GDÐH cần được phân tầng về chức năng, chứ không chỉ về chất lượng, vì đào tạo ở tầng nào cũng cần bảo đảm chất lượng theo quan niệm chất lượng là sự trùng khớp với mục tiêu. Trong thời gian qua, sự quản lý của ngành GD chưa theo các định hướng đó, cho nên mọi loại trường đều chạy theo số lượng để đào tạo ra hàng loạt SV kém chất lượng như nhau.
Cụ thể là các trường ÐH tầng trên vẫn đào tạo số lượng SV rất đông, kể cả đào tạo không chính quy, quên mất phương châm của mình là cần chú trọng chất lượng hơn số lượng. Việc phê duyệt chỉ tiêu tuyển sinh của ngành GD cũng thể hiện ưu ái các loại trường này vì cho rằng các trường này có điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo hơn các ÐH tầng thấp. Cách làm đó vô hình trung làm giảm sự tập trung đào tạo trình độ cao của họ.
(Theo GDVN)